Lừa dối – Yếu tố vô hiệu hợp đồng thương mại

doc5 trang | Chia sẻ: congthanh | Lượt xem: 2889 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lừa dối – Yếu tố vô hiệu hợp đồng thương mại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lừa dối – Yếu tố vô hiệu hợp đồng thương mại
Tháng Sáu 10, 2009 in Uncategorized 
LÊ THỊ BÍCH THỌ - Thạc sĩ, Trường ĐH Luật TP. HCM
Hợp đồng là sự thỏa thuận ý chí trong việc xác lập, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên giao kết. ý chí giao kết hợp đồng của các bên giữ vị trí vô cùng quan trọng trong việc xác định sự tồn tại hay không của hợp đồng. Các biểu hiện của sự không thống nhất ý chí (sự thể hiện ý chí khác nhau) hoặc sự trái ngược giữa biểu hiện với ý chí đích thực của các bên giao kết sẽ không hình thành nên một hợp đồng có hiệu lực. Nói cách khác một hợp đồng được giao kết dưới tác động của sự lừa dối, nhầm lẫn hay đe dọa có thể không có giá trị vì trong các hoàn cảnh như vậy, các cam kết được đưa ra không xuất phát từ ý chí đích thực của người giao kết. Cũng như nhiều quốc gia khác, pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam thừa nhận lừa dối trong giao kết hợp đồng như một yếu tố có thể đưa đến sự vô hiệu của hợp đồng. Tuy nhiên, hiểu nó như thế nào, xác định các điều kiện để một lừa dối là yếu tố vô hiệu hợp đồng lại được thể hiện khác nhau trong pháp luật của mỗi quốc gia. Trong phạm vi bài viết này chúng tôi chỉ dừng ở việc làm rõ các vấn đề có liên quan đến lừa dối – yếu tố vô hiệu của hợp đồng.
1. Khái niệm lừa dối trong giao kết hợp đồng
Lừa dối là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong đời sống hàng ngày. Theo cách nói thông thường, lừa dối là lừa bằng thủ đoạn nói dối, gian lận để làm cho người ta nhầm tưởng mà nghe theo, tin theo, ví dụ: thủ đoạn lừa dối của con buôn(1). Theo ngôn ngữ pháp luật, lừa dối là một xảo thuật dùng để lừa gạt người khác. Từ những lời lẽ gian dối đến mánh khóe xảo trá dùng để khiến người ta giao kết hợp đồng đều là lừa dối(2). Cũng có cách hiểu: “Lừa dối là hành vi cố ý đưa thông tin sai không đúng sự thật nhằm để người khác tin đó là sự thật. Nếu không có các thủ đoạn ấy thì bên kia sẽ không giao kết hợp đồng”(3). Các nhà khoa học pháp lý cũng như các nhà lập pháp Việt Nam coi lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch nên đã xác lập giao dịch đó(4). Dù cách sử dụng ngôn từ có khác nhau song nội dung của các khái niệm trên là không khác nhau. Đó là, không phải bất cứ sự nói dối nào cũng đều bị coi là lừa dối và việc xác định có tồn tại hay không sự lừa dối trong giao kết hợp đồng phải có hai điều kiện: một là, một bên phải sử dụng thủ đoạn để lừa người khác và hai là, người kia phải nghe theo, làm theo một việc nào đó (giao kết hợp đồng).
Thuật ngữ pháp lí “lừa dối” được hình thành từ thời La Mã. Cổ luật La Mã lúc đầu đã coi lừa dối như một tội phạm hình sự, theo đó những kẻ lừa dối sẽ bị trừng phạt đối với sự lừa dối mang tính chất quan trọng. Dần dần lừa dối đã được sử dụng trong lĩnh vực dân sự và xem nó như một trong các yếu tố có thể làm cho hợp đồng vô hiệu hay nói cách khác khi có lừa dối, sự thỏa thuận trở thành khiếm khuyết và bên bị lừa dối có quyền yêu cầu vô hiệu hợp đồng.
Tuy nhiên, trên thực tế làm thế nào để xác định có sự lừa dối là vấn đề rất phức tạp. Một sự khẳng định của người bán hàng về thực trạng mà anh ta không biết có phải là sự lừa dối không? Năng lực của người kí kết hợp đồng có ý nghĩa gì không trong việc xác định có hay không có sự lừa dối?
Khoa học pháp lý đã đưa ra những điều kiện để xác định khi nào thì lừa dối tồn tại. Phần lớn pháp luật các nước đều coi những lừa dối có tính chất quyết định đến sự giao kết hợp đồng là yếu tố vô hiệu hợp đồng. Tính chất quyết định thể hiện ở chỗ nếu không dùng các mánh khóe như vậy thì sẽ không có giao kết hợp đồng. “Sự lừa dối là căn cứ làm cho hợp đồng vô hiệu khi các thủ đoạn do một bên đã thực hiện mà nếu không có các thủ đoạn đó thì bên kia đã không kí kết hợp đồng”(5). Việc một người bán hàng khoe không đúng sự thật về hàng hóa của mình hoặc người bán hàng nói giá quá cao (nói thách) thì không bị xem là lừa dối, bởi lẽ trong các trường hợp này người tiếp nhận thông tin không bị buộc phải kí hợp đồng nếu họ không muốn.
Lừa dối chỉ được coi là yếu tố dẫn đến vô hiệu hợp đồng khi một bên cố ý làm cho bên kia phải giao kết hợp đồng không theo ý muốn thực. Lừa dối và nhầm lẫn đều là những khiếm khuyết của sự thể hiện ý chí của các bên trong giao kết hợp đồng và đều giống nhau ở chỗ cả hai đều liên quan đến việc trình bày một cách trực tiếp hay gián tiếp về những sự việc không đúng sự thật hay không tiết lộ một sự thật. Song sự lừa dối khác với nhầm lẫn ở chỗ: Sự nhầm lẫn vốn do người kí kết hợp đồng tự mình hiểu sai còn sự lừa dối là sự hiểu sai do đối phương gây ra. Sự phân biệt giữa lừa dối và nhầm lẫn được xác định bởi tính chất và mục đích của việc trình bày gian lận của một bên. Nhầm lẫn hay lừa dối đều đưa đến hệ quả là hợp đồng có thể bị vô hiệu do thỏa thuận không thể hiện đúng ý chí thật của các bên.
Về nguyên tắc, hành vi lừa dối phải do chính một bên giao kết hợp đồng thực hiện. Tuy nhiên, dù một người kí kết hợp đồng không trực tiếp thực hiện hành vi gian trá nhưng đã tham gia hoặc đồng lõa với hành vi gian trá đó thì hành vi này cũng được coi là do chính người kí hợp đồng thực hiện. Đối với người thứ ba ngay tình thì sự ảnh hưởng của hậu quả pháp lí không được tính đến. Pháp luật của một số nước, trong một số trường hợp coi sự kiện không nói ra điều mà người kí có trách nhiệm phải nói khi kí hợp đồng cũng được coi là hành vi gian trá và trong một số trường hợp pháp luật cũng thừa nhận việc khai gian hay im lặng trong trường hợp xét một cách hợp lý phải thông tin cho người cùng giao kết biết là lừa dối. Khi đưa ra nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế, Unidroit(6) đã ghi nhận nguyên tắc: ”Một bên trong hợp đồng được phép vô hiệu hợp đồng, nếu bên đó giao kết hợp đồng do bị phía bên kia lừa dối về sự việc, kể cả trong ngôn ngữ hoặc hành vi, hoặc do bên kia (bên lừa dối) không cung cấp thông tin về các yếu tố, mà theo những tiêu chuẩn thông thường về công bằng và hợp lí trong thương mại họ phải đựoc thông báo”(7). Như vậy, pháp luật nhiều nước cũng như nguyên tắc thương mại quốc tế không chỉ giới hạn sự biểu hiện của lừa dối ở hành vi, lời nói mà thừa nhận cả trường hợp một bên không cung cấp thông tin hoặc im lặng khi xét một cách hợp lí là họ phải có nghĩa vụ thông báo. Đây là điểm mà pháp luật của Việt Nam còn bỏ ngỏ. Pháp luật Việt Nam hiện hành chỉ coi những hành vi cố ý của một bên mà không thừâ nhận sự im lặng hoặc không thông tin khi có nghiã vụ thông tin đến người cùng giao kết hợp đồng là lừa dối. Chính cách tiếp cận như trên của pháp luật đã không giải quyết được một trong các vấn đề nảy sinh của thực tiễn thực hiện các hợp đồng mua bảo hiểm ở Việt Nam trong thời gian gần đây là làm thế nào để bảo vệ người mua bảo hiểm trước sự thiếu hiểu biết của người mua bảo hiểm đối với các hợp đồng bảo hiểm vô cùng phức tạp. Trong trường hợp này nếu không có sự giải thích, hướng dẫn của bên bảo hiểm thì người mua không thể hiểu một cách đầy đủ trước khi kí kết hợp đồng. Bên cạnh đó pháp luật cũng không thừa nhận sự lừa dối gián tiếp thông qua người thứ ba là yếu tố làm cho hợp đồng có thể vô hiệu.
Trong giai đoạn hiện nay các hợp đồng mẫu đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ tài sản. Phần lớn các hợp đồng trong lĩnh vực vận tải, dịch vụ đại chúng như cung ứng điện nước… đều được kí kết trên cơ sở các hợp đồng mẫu. Những hợp đồng mẫu nhờ tính phổ biến và thông dụng mà trở thành tập quán thương mạI(8). Những hợp đồng này đã hình thành nên mối quan hệ không bình đẳng. Vì vậy, đòi hỏi pháp luật phải có các qui định mang tính ràng buộc điều chỉnh chúng. Đòi hỏi đối với các hợp đồng này phải chặt chẽ hơn là phù hợp.
Tóm lại, để có thể xem xét một hành vi có phải là sự lừa dối trong giao kết hợp đồng hay không người ta căn cứ vào các yếu tố sau đây: Một là, phải có sự cố ý đưa thông tin sai lệch hoặc bỏ qua sự thật của một bên, Hai là, người nghe phải không biết đến sự sai lệch đó. Ba là, người nghe đã tin vào sự sai lệch do một bên đưa ra mà giao kết hợp đồng. Và bốn là, phải có thiệt hại xảy ra.
2. Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn đề này ở Việt Nam
Khoa học pháp lí cũng như luật thực định ở Việt Nam ghi nhận lừa dối như một điều kiện có thể vô hiệu hợp đồng trong lĩnh vực hợp đồng dân sự rất rõ ràng và cụ thể, song lại không thừa nhận một cách chính thức trong giao kết hợp đồng kinh tế. Điểm c, khoản 1, Điều 8 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế đã sử dụng thuật ngữ lừa đảo và coi đây là tiêu chí xác định vô hiệu toàn bộ hợp đồng kinh tế. Điều này thể hiện quan điểm của các nhà lập pháp là chỉ coi các lừa gạt đặc biệt nghiêm trọng mới đưa đến sự vô hiệu hợp đồng. Vậy thế nào là lừa đảo, thuật ngữ này khác với lừa dối như thế nào và sử dụng thuật ngữ nào trong việc xác định vô hiệu hợp đồng là thích hợp.
Trước hết cần làm rõ thế nào là có hành vi lừa đảo. Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế không qui định cụ thể thế nào là lừa đảo. Trước đây Trọng tài kinh tế có giải thích tại Thông tư 108/TT-PL như sau: Người kí hợp đồng kinh tế có hành vi lừa đảo như giả danh, giả mạo giấy tờ, chữ kí, con dấu, v.v thì hợp đồng kinh tế đã kí bị coi là vô hiệu toàn bộ. Song văn bản trên đã không còn hiệu lực kể từ khi trọng tài kinh tế chấm dứt hoạt động. Tuy vậy, trên thực tế quan điểm trên vẫn được thừa nhận trong quá trình giải quyết tranh chấp về hợp đồng kinh tế. Theo Bộ luật Hình sự, lừa đảo là hành vi gian dối, tức là đưa ra các thông tin không đúng sự thật nhằm để người khác tin là sự thật. Việc điều tra và kết luận hành vi “lừa đảo” thuộc chức năng của các cơ quan công an, Viện kiểm sát, Tòa án theo qui định của pháp luật. Tội danh lừa đảo phải xử lý theo các qui định trong BLHS. Từ các qui định trên về lừa đảo cho thấy một quan hệ giữa lừa đảo trong hình sự và lừa đảo trong quan hệ kinh tế có sự phân biệt tuy không thật rõ nét, đó là lừa đảo trong hình sự được coi là tội phạm còn lừa đảo trong quan hệ kinh tế không nhất thiết là tội phạm.
Để xác định có “hành vi lừa đảo” của người kí kết hợp đồng kinh tế phải có sự kết luận của các cơ quan có thẩm quyền. Do vậy khi chưa có kết luận của cơ quan có thẩm quyền theo qui định của BLHS và TTHS mà đã kết luận: hợp đồng kinh tế vô hiệu do người kí hợp đồng kinh tế có hành vi lừa đảo và đưa ra xử lý theo Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế là chưa bảo đảm cơ sở pháp lí.
Về vấn đề này có quan điểm cho rằng theo qui định của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế, khi phát hiện hợp đồng kinh tế vi phạm pháp luật, cơ quan có thẩm quyền xử lý phải xử lý về mặt kinh tế, kết luận hợp đồng kinh tế vô hiệu toàn bộ rồi sau đó nếu phát hiện có dấu hiệu phạm tội mới chuyển hồ sơ sang cho cơ quan pháp luật có thẩm quyền (VKS, Tòa án) để điều tra truy cứu trách nhiệm hình sự. Chính sự không thống nhất trong cách hiểu về một thuật ngữ trong các lĩnh vực pháp luật khác nhau đã đưa đến sự không thống nhất trong áp dụng luật.
Theo quan điểm trên thì việc kết luận và xử lý Hợp đồng kinh tế vô hiệu là cần thiết. Tuy nhiên lại có một vấn đề đặt ra là sau khi cơ quan có thẩm quyền kết luận người kí kết hợp đồng kinh tế không có “hành vi lừa đảo” thì việc giải quyết tiếp theo sẽ như thế nào? Hậu quả pháp lý thuộc về ai nếu kết luận của cơ quan xử lý hợp đồng kinh tế chỉ mang tính phỏng đoán, không có cơ sở pháp lý nào cả? Trên thực tế việc kết luận và xử lý Hợp đồng kinh tế vô hiệu toàn bộ vì lí do người kí hợp đồng kinh tế có hành vi lừa đảo gặp rất nhiều khó khăn và phức tạp. Cách tiếp cận như trên của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế đã không thực sự quan tâm đến ý chí đích thực của các bên giao kết. Bởi trong nhiều trường hợp chưa có đủ cơ sở để kết luận có hành vi lừa đảo, song ý chí của một bên giao kết hợp đồng vẫn có thể bị khiếm khuyết. Giao dịch dân sự-kinh tế không quan tâm đến việc ai đó có tội hay không mà điều người giao kết quan tâm là lợi ích của mình trong giao dịch có đạt đựợc hay không. Vì vậy, đưa ra dấu hiệu có hành vi lừa đảo làm tiêu chí xác định vô hiệu hợp đồng kinh tế là chưa thỏa đáng và chưa thực sự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bên giao kết ngay tình và không có lỗi. Vì vậy, chúng tôi cho rằng sử dụng thuật ngữ “Lừa dối” như qui định của Bộ luật Dân sự là thích hợp.
Có một vấn đề mà thực tiễn kí kết hợp đồng kinh tế đặt ra là hợp đồng kinh tế khống chỉ (hợp đồng kinh tế có chữ kí trước của người có thẩm quyền kí kết hợp đồng kinh tế theo pháp luật và đóng dấu sẵn). Những hợp đồng kinh tế kí dựa trên các văn bản khống chỉ như thế có vô hiệu không? Có ý kiến cho rằng hợp đồng kinh tế nói trên sẽ chỉ được coi là vô hiệu khi bên đối tác yêu cầu cơ quan có thẩm quyền kết luận là Hợp đồng kinh tế vô hiệu vì trong trường hợp này có lỗi của người đại diện. Theo tôi trường hợp trên không thể coi như một sự lừa đảo. Hợp đồng kinh tế vẫn có hiệu lực và người kí các bản hợp đồng kinh tế khống chỉ đó phải chịu trách nhiệm trừ trường hợp phía đối tác biết chắc tình trạng khống chỉ.
Từ những phân tích trên chúng tôi có một số đề xuất sau:
- Thứ nhất, cần thiết phải có sự thống nhất trong sử dụng các thuật ngữ pháp lí và trong trường hợp này sử dụng khái niệm “lừa dối” là hợp lí, chặt chẽ và thống nhất hơn. Các giao dịch dân sự và kinh tế thực hiện dưới tác động của sự lừa dối đã đủ để chúng bị coi là vô hiệu. Lừa dối khác với lừa đảo ở chỗ là lừa dối không nhằm chiếm đoạt tài sản mà chỉ nhằm có được hợp đồng. Người kí hợp đồng có hành vi lừa dối ở đây được hiểu là những người có hành vi cố ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung hoặc hình thức công việc đã thỏa thuận hoặc có hành vi gian dối, lợi dụng sơ xuất để thu lợi bất chính, gây thiệt hại cho bên kia.
- Thứ hai, cần xác định điều kiện đưa đến sự lừa dối đối với các hợp đồng mẫu (hợp đồng được một bên mà thường là bên cung cấp dịch vụ soạn thảo trước theo mẫu và sẽ được hình thành khi một bên kí vào hợp đồng) trong trường hợp bên đưa ra hợp đồng mẫu mà không giải thích rõ làm cho bên kia vì không biết rõ hoặc không để ý mà kí hợp đồng cũng là lừa dối.
- Thứ ba, cũng cần xác định trách nhiệm của người thứ ba trong quan hệ hợp đồng bị vô hiệu.
(1) Nguyễn Như Ý, Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa – Thông tin, 1998, tr. 1068.
(2) Trần Thúc Lanh, Danh từ pháp luật lược giải, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, tr. 378.
(3) Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật dân sự.
(4) Bộ luật Dân sự 1995, Điều 142.
(5) Bộ luật Dân sự của nước Cộng hòa Pháp, Nhà văn hóa Việt – Pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 1998.
(6) Viện Thống nhất Tư pháp quốc tế.
(7) Unidroit, Nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế, Nxb TP. HCM, 1999, Điều 3.8.
(8) Những quy định chung của Luật hợp đồng ở Pháp, Đức, Anh, Mỹ, Nxb Chính trị quốc gia, 1993, tr. 8

File đính kèm:

  • doclua_doi_yeu_to_vo_hieu_hop_dong_thuong_mai_9557.doc
Hợp đồng liên quan